NANO BẠC ĐƯỢC SỬ DỤNG ĐIỀU TRỊ CÁC TRIỆU CHỨNG CỦA BỆNH TRĨ

Bệnh trĩ đã hoành hành loài người từ thời cổ đại và thậm chí có thể ảnh hưởng đến lịch sử thế giới. Hoàng đế Pháp, Napoléon Bonaparte, mắc bệnh trĩ. Vào ngày diễn ra trận chiến quyết định tại Waterloo, Napoléon rất đau đớn vì căn bệnh trĩ huyết khối nghiêm trọng, khiến khả năng chỉ huy chiến trường của ông bị ảnh hưởng.  Ngày nay, bệnh trĩ vẫn là rối loạn hậu môn trực tràng phổ biến nhất và thường thấy ở các phòng khám chăm sóc ban đầu, khu cấp cứu, khoa tiêu hóa và phòng khám phẫu thuật.  Hơn một nửa số người tại một thời điểm nào đó sẽ phát triển các triệu chứng của bệnh trĩ như chảy máu, ngứa ngáy, viêm, đau rát. Nano bạc được biết đến như một chất diệt khuẩn, kháng viêm. Việc sử dụng nano bạc cho thấy hiệu quả trong điều trị các triệu chứng do bệnh trĩ nội trĩ ngoại gây ra

Nano bạc được sử dụng để điều trị các triệu chứng của bệnh trĩ

(NanoCMM Technology)

Sinh lý bệnh và trình bày

Trĩ là đệm mạch máu ở phần dưới trực tràng và hậu môn. Vai trò của bệnh trĩ không hoàn toàn rõ ràng, nhưng người ta đã đề xuất rằng chúng góp phần vào cảm giác và sự tự chủ. Có hai loại trĩ: nội và ngoại. Trĩ nội nằm bên trong ống hậu môn và được bao phủ bởi lớp niêm mạc hậu môn. Ở hầu hết các bệnh nhân, người ta có thể xác định được ba cột trĩ, hai bên phải và một bên trái. Tuy nhiên, một số biến thể tồn tại và một số bệnh nhân có nhiều hơn ba bó. Trĩ ngoại chiếm phần dưới của ống hậu môn và được bao phủ bởi lớp da và hậu môn. Trĩ ngoại có thể xuất hiện ở một hoặc nhiều góc phần tư hoặc có thể có chu vi.

Nguyên nhân chính xác của bệnh trĩ là không rõ. Một số yếu tố góp phần đã được cho là liên quan, bao gồm tư thế thẳng đứng của con người, lão hóa, mang thai, di truyền, táo bón hoặc tiêu chảy mãn tính và dành quá nhiều thời gian cho nhà vệ sinh (tức là đọc sách, rặn).

Bệnh nhân thường phàn nàn, “Bác sĩ ơi, tôi bị trĩ,” coi bất kỳ triệu chứng nào ở hậu môn trực tràng với bệnh trĩ, bao gồm chảy máu, cục u, khối u và đau. Điều quan trọng cần ghi nhớ là mặc dù bệnh trĩ là phổ biến, nhưng các chẩn đoán phân biệt đối với rối loạn hậu môn trực tràng bao gồm các bệnh da liễu như ngứa hậu môn, áp xe và lỗ rò, vết nứt, bệnh lây truyền qua đường tình dục, mụn cóc, HIV, nhiễm trùng không điển hình như bệnh lao, viêm loét như như bệnh Crohn, và bệnh ác tính. Các triệu chứng của bệnh trĩ nội và ngoại được tóm tắt trongBảng 1. Mặc dù đau hậu môn dữ dội thường được cho là do bệnh trĩ, nhưng chúng hiếm khi là nguyên nhân. Trong trường hợp không nhìn thấy được búi trĩ ngoại bị huyết khối (cục máu đông và sưng tấy), cơn đau dữ dội thường là do nứt hậu môn chứ không phải trĩ nội.ban 2trình bày các nguyên nhân khác gây đau hậu môn nghiêm trọng.

Các hạt nano bạc là tác nhân kháng khuẩn trong chữa lành vết thương

Do sự bùng phát của các bệnh truyền nhiễm do các vi khuẩn gây bệnh khác nhau gây ra và sự phát triển của tình trạng kháng thuốc kháng sinh, các công ty dược phẩm và các nhà nghiên cứu đang tìm kiếm các chất kháng khuẩn mới không gây ra tình trạng kháng thuốc và có chi phí thấp. Các hạt nano bạc đã nổi lên như một chất chống vi trùng mới, nhờ tỷ lệ diện tích bề mặt trên thể tích cao và các tính chất vật lý và hóa học độc đáo của chúng. Các hạt nano bạc có thể được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là y học và dược phẩm do ít độc tính đối với tế bào người, độ ổn định nhiệt cao và độ bay hơi thấp.  Các thuộc tính này đã dẫn đến một loạt các nghiên cứu trong đó các hạt nano bạc đóng vai trò như thuốc và như chất chống vi trùng ưu việt và thậm chí còn được chứng minh là ngăn chặn HIV liên kết với tế bào chủ. 

Các hạt nano bạc thể hiện tác dụng kháng khuẩn đối với một số lượng lớn các loài vi khuẩn (bảng số 3). Cơ chế hoạt động và liên kết của các hạt nano bạc với vi khuẩn vẫn chưa rõ ràng, nhưng người ta biết rằng bạc liên kết với thành tế bào vi khuẩn và màng tế bào và ức chế quá trình hô hấp 40 nhờ đó năng lượng hóa học  các phân tử được giải phóng và thu giữ một phần dưới dạng của adenosine triphosphate. Các hạt nano bạc tương tác với các protein chứa lưu huỳnh của màng vi khuẩn, cũng như với các hợp chất chứa phốt pho như DNA, để ức chế sự sao chép.  Tác dụng diệt khuẩn của bạc cũng được cho là do làm bất hoạt enzym phosphomannose isomerase, xúc tác quá trình chuyển đổi mannose-6-phosphate thành fructose-6-phosphate, một chất trung gian quan trọng của quá trình đường phân, con đường phổ biến nhất ở vi khuẩn để dị hóa đường

Bảng 3 Các nghiên cứu gần đây về hoạt động kháng khuẩn của hạt nano bạc

Các hạt nano bạc ức chế cả viêm cục bộ và toàn thân

Phản ứng viêm là một phần quan trọng của quá trình chữa lành vết thương. Các chất trung gian gây viêm khác nhau được tiết ra để điều chỉnh quá trình chữa lành vết thương. Trong quá trình lành vết thương thông thường, khả năng tồn tại của các cytokine tiền viêm và chống viêm, và phản ứng viêm là hoàn toàn phù hợp. Để đạt được thành công trong việc sửa chữa vết thương và tái tạo mô, phản ứng viêm phải được điều chỉnh một cách an toàn trong cơ thể. Một chất trung gian quan trọng trong dòng thác chống viêm này dường như là interleukin 10 (IL-10), có thể được sản xuất bởi các tế bào sừng cũng như các tế bào viêm tham gia vào quá trình chữa bệnh, bao gồm tế bào lympho T, đại thực bào và tế bào lympho B  (Hình 5).

Hình 5 Vai trò của các Cytokine và chất trung gian khác nhau ở các giai đoạn khác nhau của quá trình lành vết thương bình thường

Một trong những hành động độc đáo của IL-10 là khả năng ức chế sự tổng hợp của các cytokine tiền viêm, bao gồm cả IL-6.  IL-10 cũng ức chế sự di chuyển của bạch cầu đến vị trí viêm, một phần bằng cách ức chế sự tổng hợp của một số chemokine, bao gồm protein-1 chất hấp dẫn hóa học đơn nhân và protein gây viêm đại thực bào-1a.  Cả hai chemokine này đều thúc đẩy sự tích tụ bạch cầu đơn nhân và protein gây viêm đại thực bào-1a cũng là một chất hóa học hấp dẫn bạch cầu trung tính mạnh ở chuột. 

Tian và cộng sự.  đã nghiên cứu ảnh hưởng của các hạt nano bạc trong phản ứng viêm tại vị trí vết thương và quan sát thấy rằng mức độ biểu hiện thấp của yếu tố tăng trưởng chuyển dạng β (TGF-β) trùng khớp tạm thời với mức độ interferon (IFN)-γ tăng lên cho đến khi vết thương đóng lại ở động vật được điều trị bằng hạt nano bạc. Vì IFN-γ đã được chứng minh là chất đối kháng mạnh mẽ với quá trình tạo sợi thông qua khả năng ức chế sự tăng sinh nguyên bào sợi và sản xuất ma trận, nên việc kiểm soát sản xuất TGF-β của nó có thể đóng một vai trò nào đó.  Yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF) đã được chứng minh là có tác dụng thúc đẩy quá trình lành bệnh. Mức RNA thông tin VEGF (mRNA) cao hơn nhiều được phát hiện trong các tế bào sừng ở rìa vết thương và trong các tế bào sừng di chuyển để che phủ bề mặt vết thương.

Ngoài một số tế bào đơn nhân, biểu hiện VEGF không được tìm thấy ở các loại tế bào khác trong vết thương.  Thiên và cộng sự.  gợi ý rằng tế bào sừng trong vết thương là nguồn VEGF chính. Vì VEGF có tính đặc hiệu cao đối với các tế bào nội mô, nên nó có khả năng hoạt động theo cách cận tiết trên các mao mạch đang mọc lên của mép vết thương và mô hạt.  Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng TGF-β có thể tạo ra các tế bào sừng để tạo ra biểu hiện gen VEGF.  Tian và cộng sự. phát hiện ra rằng TGF-β tăng lên và đạt cực đại vào ngày thứ 3 ở động vật được xử lý bằng hạt nano bạc và có thể giải thích tại sao mức mRNA VEGF cao hơn đáng kể được duy trì trong giai đoạn đầu của quá trình chữa lành vết thương.  Thiên và cộng sự.  đã kết luận rằng các hạt nano bạc có thể điều chỉnh phản ứng viêm tại chỗ và toàn thân sau tổn thương do bỏng bằng cách điều chỉnh cytokine (bàn số 3). Do các cytokine đóng vai trò quan trọng trong việc chữa lành vết thương nên các tác giả đã nghiên cứu các kiểu biểu hiện của IL-6, TGF-β1, IL-10, VEGF và IFN-γ bằng phản ứng chuỗi polymerase thời gian thực định lượng (PCR). Mức độ IL-6 mRNA ở vùng vết thương được điều trị bằng hạt nano bạc được duy trì ở mức thấp hơn đáng kể về mặt thống kê trong suốt quá trình chữa bệnh, trong khi mức độ mRNA của TGF-β1 cao hơn trong thời gian đầu chữa lành ở vị trí được điều trị bằng hạt nano bạc.

Xu hướng tương tự cũng được quan sát thấy đối với IL-10, VEGF và IFN-γ mRNA. Hơn nữa, trong nghiên cứu này, kết quả thẩm mỹ tốt hơn đã được quan sát thấy ở động vật được điều trị bằng các hạt nano bạc. Về mặt chữa lành vết thương, biểu hiện tăng cường của TGF-β1 mRNA đã được tìm thấy ở cả sẹo lồi và sẹo phì đại. Bằng chứng tích lũy đã gợi ý rằng TGF-β1 đóng một vai trò quan trọng trong quá trình xơ hóa mô và sẹo sau chấn thương. Các tác giả đã chứng minh rằng mức độ thấp hơn của TGF-β trùng khớp tạm thời với mức độ IFN-γ tăng lên trước khi đóng vết thương ở nhóm được điều trị bằng hạt nano bạc. Vì IFN-γ đã được chứng minh là chất đối kháng mạnh mẽ với quá trình tạo sợi thông qua khả năng ức chế sự tăng sinh nguyên bào sợi và sản xuất ma trận, nên việc kiểm soát sản xuất TGF-β của nó có thể đóng một vai trò trong tác động tích cực của bạc đối với quá trình chữa lành vết thương. Về sự hình thành mạch, ai cũng biết rằng VEGF thúc đẩy quá trình chữa lành vết thương.

 

Kết luận và triển vọng tương lai

Một quá trình chữa lành vết thương hiệu quả và đầy đủ là rất quan trọng đối với sức khỏe chung của bất kỳ bệnh nhân nào. Trong thời gian gần đây, người ta đã đạt được những tiến bộ to lớn trong việc khám phá ra các cơ chế tế bào và phân tử làm cơ sở cho quá trình chữa lành vết thương. Trong các phương pháp điều trị lâm sàng vết thương và vết loét hiện nay, các loại thuốc như thuốc chống vi trùng tại chỗ vẫn còn phù hợp. Hơn nữa, áp dụng công nghệ nano và kết hợp kiến ​​thức về các sự kiện tế bào, dưới tế bào xảy ra trong quá trình chữa bệnh điển hình, rõ ràng có thể có được các biện pháp can thiệp điều trị tốt hơn trong tương lai. Công nghệ nano mang đến những cơ hội tuyệt vời để cải thiện phương pháp điều trị vết thương. Quy mô nanomet mở đường cho sự phát triển của các vật liệu mới để sử dụng trong công nghệ y tế tiên tiến. Các hạt nano bạc thể hiện các đặc tính sinh học đáng chú ý, chẳng hạn như chống viêm, các hoạt động kháng vi-rút và đặc tính kháng khuẩn với ít vi khuẩn kháng thuốc hơn. Băng hạt nano bạc hiện là tiêu chuẩn vàng mới trong điều trị bảo tồn vết thương và vết bỏng, bệnh trĩ, các vết thương hở ngoài da do va chạm trầy xướt

Nguồn tham khảo:

Silver Nanoparticles as Real Topical Bullets for Wound Healing

Thirumurugan Gunasekaran, MPharm, PhD,a, Tadele Nigusse, MSc,b and Magharla Dasaratha Dhanaraju, MPharm, PhDa