Povidone Iodine 10% được sử dụng như một chất khử trùng chuồng trại,vật tư chăn nuôi và cả khử trùng nước trong nuôi trồng thủy sản. Phần lớn Povidone Iodine được nhập khẩu. Do ảnh hưởng của dịch Covid 19, tình trạng khan hiếm container, chí phí năng lượng, xăng dầu tăng làm giá hóa chất tăng theo và tình trạng thiếu hụt hàng hóa trong nước. Nano bạc được biết đến như một chất khử trùng an toàn, không mùi, không độc hại, không ảnh hưởng đến sức khỏe vật nuôi và con người. Nano bạc là một giải pháp thay thế hữu hiệu cho các chất khử trùng hiện tại. NANOCMM xin nêu một số ưu nhược điểm của Povidone Iodine và Nano bạc để mọi người cùng tham khảo
STT | HẠNG MỤC | POVIDONE-IODINE 10% | NANO BẠC 1000 PPM |
1 | Chi phí | * Giá tham khảo từ công ty thương mại + Thời điểm trước dịch: 200.000 -300.000 vnđ (Số lượng tấn/đơn hàng) –> giá nhập khẩu 100.000 – 150.000 vnđ + Thời điểm hiện tại 400.000 – 500.000 vnđ (số lượng tấn/đơn hàng) –> giá nhập khẩu 200.000 – 250.000 vnđ) | * Giá nguyên liệu đầu vào 1000 ppm 140.000 -160.000 vnđ
|
2 | MIC MBC LD50 | MIC 250 PPM MBC 500 PPM LD50: 8000 mg/kg | MIC 3.15 ppm MBC 6.25 ppm LD50: 5000 mg/kg |
3 | Liều dùng thực tế | 1L povidone iodine 10% pha loãng 150-250L nước để phun khử trùng | 1L nano bạc 1000 ppm pha 200-250L nước để phun khử trùng |
4 | Hiệu quả diệt khuẩn | Liều dùng 250 ppm (0.025%) diệt khuẩn thời gian 1 phút đạt 99% ở mật độ vi khuẩn 105 CFU/ml | Thời gian diệt khuẩn 10 ppm trong 1 phút đạt 93,5% ở số lượng vi khuẩn 106 CFU/ml (Kiểm định tại Pasteur) |
5 | Ưu điểm | An toàn nhờ khả năng giải phóng iod chậm Diệt khuẩn phổ rộng, nấm, vi khuẩn | Nano bạc là chất diệt khuẩn an toàn Diệt khuẩn phổ rộng, nấm, vi khuẩn Thời gian bảo vệ cảu nano bạc > 48h |
6 | Nhược điểm | Nhược điểm khó khắc phục nhất là hiệu lực tác dụng không kéo dài do iod giải phóng ra tiếp xúc với ánh sáng có thể bị phân hủy và mất màu. Điều này làm giảm tác dụng của thuốc sát trùng | Nano bạc là sản phẩm kém bền có xu hướng trở về trạng thái micro làm giảm hiệu quả diệt khuẩn. Do đó cũng có yêu cầu về chất lượng nano bạc cũng như việc sử dụng nước pha loãng phải tinh khiết |
7 | Nguồn tham khảo | https://academic.oup.com/jac/article/65/8/1712/743725 | https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC4138668/ |
(Bản quyền thuộc NanoCMM Technology)
MIC: Minimum Inhibitory Concentration
Nồng độ Ức chế Tối thiểu (MIC) được định nghĩa là nồng độ thấp nhất của một thành phần hoặc tác nhân kháng khuẩn có tác dụng kìm khuẩn (ngăn chặn sự phát triển có thể nhìn thấy của vi khuẩn). MIC được sử dụng để đánh giá hiệu quả kháng khuẩn của các hợp chất khác nhau bằng cách đo ảnh hưởng của việc giảm nồng độ kháng sinh / chất khử trùng trong một khoảng thời gian xác định về mặt ức chế sự phát triển của quần thể vi sinh vật. Những đánh giá này có thể khá hữu ích trong giai đoạn R & D của một sản phẩm để xác định nồng độ thích hợp cần thiết trong sản phẩm cuối cùng, vì nồng độ thuốc cần thiết để tạo ra tác dụng thường nhỏ hơn vài trăm đến hàng nghìn lần so với nồng độ được tìm thấy trong liều lượng thành phẩm hình thức.
Các nồng độ khác nhau của các hợp chất được cấy vào vi khuẩn nuôi cấy, và kết quả được đo bằng cách sử dụng pha loãng thạch hoặc pha loãng môi trường (vĩ mô hoặc vi mô) để xác định điểm cuối MIC được thiết lập ở mức nào. Thử nghiệm tính nhạy cảm thường được tiến hành bằng cách sử dụng các sinh vật góp phần vào quá trình lây nhiễm đảm bảo hóa trị liệu kháng khuẩn. Một loại vi khuẩn thường được sử dụng có tên là mầm bệnh ESKAPE ( Enterococcus faecium, Staphylococcus aureus, Klebsiella pneumoniae, Acinetobacter baumannii, Pseudomonas aeruginosa và Enterobactergiống loài). Các tác nhân gây bệnh ESKAPE được coi là nguyên nhân hàng đầu của các bệnh nhiễm trùng bệnh viện (liên quan đến bệnh viện) và được biết là có khả năng kháng lại các sản phẩm kháng khuẩn. Các sinh vật khác như vi khuẩn hiếu khí hoặc kỵ khí, nấm men hoặc nấm sợi, đơn lẻ hoặc kết hợp nhiều lần cũng có thể được sử dụng. Chuyên khảo cuối cùng về dự kiến của FDA (TFM- mục 333.470, trang 31444) cũng cung cấp hướng dẫn về các sinh vật sử dụng để xác định hiệu quả của các sản phẩm như nước rửa tay sát trùng, nước rửa tay cho nhân viên y tế, các chế phẩm da cho bệnh nhân trước khi phẫu thuật và tẩy tế bào chết cho tay phẫu thuật.
MBC: Minimum Bactericidal Concentration
Nồng độ diệt khuẩn tối thiểu (MBC) là nồng độ thấp nhất của chất kháng khuẩn cần thiết để tiêu diệt vi khuẩn trong một khoảng thời gian cố định, có phần kéo dài, chẳng hạn như 18 giờ hoặc 24 giờ, trong một số điều kiện cụ thể. Nó có thể được xác định từ việc pha loãng môi trường của các phép thử MIC bằng cách nuôi cấy con vào các đĩa thạch không chứa chất thử. MBC được xác định bằng cách xác định nồng độ thấp nhất của chất kháng khuẩn làm giảm khả năng sống của vi khuẩn ban đầu bằng mức giảm xác định trước như ≥99,9%. MBC bổ sung cho MIC; trong khi thử nghiệm MIC cho thấy mức chất kháng khuẩn thấp nhất có khả năng ức chế sự phát triển, thì MBC cho thấy mức chất kháng khuẩn thấp nhất dẫn đến cái chết của vi sinh vật. Nói cách khác, nếu MIC cho thấy sự ức chế, mạ vi khuẩn lên thạch vẫn có thể dẫn đến sự sinh sôi của sinh vật vì chất kháng khuẩn không gây chết. Các tác nhân kháng khuẩn thường được coi là chất diệt khuẩn nếu MBC không quá bốn lần MIC.
Thử nghiệm MBC có thể là một công cụ tốt và tương đối rẻ tiền để đánh giá đồng thời nhiều chất kháng khuẩn về hiệu lực. Thử nghiệm MBC có thể được sử dụng để đánh giá các vấn đề về công thức trong đó nhà sản xuất nghi ngờ rằng thành phần hoạt chất đang bị “kết dính” bởi các thành phần khác. Lý thuyết cho rằng MBC sẽ kém hơn đối với công thức có một phần hoạt chất của nó được kết hợp hóa học với các thành phần khác, do đó không có khả năng tiêu diệt vi sinh vật trong huyền phù. Các tác nhân kháng khuẩn thường được coi là chất diệt khuẩn nếu MBC không quá bốn lần MIC. Thử nghiệm MBC có thể là một công cụ tốt và tương đối rẻ tiền để đánh giá đồng thời nhiều chất kháng khuẩn về hiệu lực. Thử nghiệm MBC có thể được sử dụng để đánh giá các vấn đề về công thức trong đó nhà sản xuất nghi ngờ rằng thành phần hoạt chất đang bị “kết dính” bởi các thành phần khác. Lý thuyết cho rằng MBC sẽ kém hơn đối với công thức có một phần hoạt chất của nó được kết hợp hóa học với các thành phần khác, do đó không có khả năng tiêu diệt vi sinh vật trong huyền phù. Các tác nhân kháng khuẩn thường được coi là chất diệt khuẩn nếu MBC không quá bốn lần MIC.
Thử nghiệm MBC có thể là một công cụ tốt và tương đối rẻ tiền để đánh giá đồng thời nhiều chất kháng khuẩn về hiệu lực. Thử nghiệm MBC có thể được sử dụng để đánh giá các vấn đề về công thức trong đó nhà sản xuất nghi ngờ rằng thành phần hoạt chất đang bị “kết dính” bởi các thành phần khác. Lý thuyết cho rằng MBC sẽ kém hơn đối với công thức có một phần hoạt chất của nó được kết hợp hóa học với các thành phần khác, do đó không có khả năng tiêu diệt vi sinh vật trong huyền phù. Thử nghiệm MBC có thể được sử dụng để đánh giá các vấn đề về công thức trong đó nhà sản xuất nghi ngờ rằng thành phần hoạt chất đang bị “kết dính” bởi các thành phần khác. Lý thuyết là MBC sẽ kém hơn đối với công thức có một phần hoạt chất của nó được kết hợp hóa học với các thành phần khác, do đó không có khả năng tiêu diệt vi sinh vật trong huyền phù. Thử nghiệm MBC có thể được sử dụng để đánh giá các vấn đề về công thức trong đó nhà sản xuất nghi ngờ rằng thành phần hoạt chất đang bị “kết dính” bởi các thành phần khác. Lý thuyết là MBC sẽ kém hơn đối với công thức có một phần hoạt chất của nó được kết hợp hóa học với các thành phần khác, do đó không có khả năng tiêu diệt vi sinh vật trong huyền phù.
LD50
LD là viết tắt của “Lethal Dose”. LD 50 là liều lượng của hoá chất phơi nhiễm trong cùng một thời điểm, gây ra cái chết cho 50% (một nửa) của một nhóm động vật dùng thử nghiệm. LD 50 là một cách thức đo lường khả năng ngộ độc ngắn hạn (độc tính cấp tính) của một hoá chất.
Chất độc có thể thử nghiệm trên nhiều loại động vật, nhưng thường xuyên nhất được thực hiện với chuột. Nó thường được biểu diễn bằng 01 liều lượng hóa chất (ví dụ, milligrams)/ phơi nhiễm trên mỗi 100 gram (cho động vật nhỏ hơn) hoặc trên một kg (đối với đối tượng thử nghiệm lớn hơn) trọng lượng cơ thể của động vật thử nghiệm. LD 50 có thể được xem như là 01 phương pháp quản lý dựa bất kỳ đường phơi nhiễm nào nhưng phơi nhiễm qua da (áp dụng cho da) và uống (qua miệng) là phổ biến nhất.